Mặc dù người ta đã phát hiện virus gây bệnh thủy đậu ở người từ rất lâu rồi (Aragao - E.Paschen, 1911) nhưng với nguy cơ lây nhiễm cao căn bệnh này vẫn còn gây tác hại không nhỏ cho cộng đồng. Mặt khác đây còn là một bệnh hiện nay nhiều người dân vẫn còn xem nhẹ do chưa hiểu hết mức độ nguy hiểm của nó
? Nguyên nhân
Tác nhân gây bệnh là virus ecpec 3 (alpha) của người, trong dân gian phía Bắc thường gọi bệnh này là phỏng rạ, phía Nam gọi là trái rạ. Virus này còn là nguyên nhân gây bệnh Zona (giời leo) ở người lớn có thể gây biến chứng dẫn đến tử vong. Virus lưu hành trên toàn thế giới (90% trẻ dưới 15 tuổi bị thủy đậu, 95% người đến tuổi thành niên đã từng bị mắc bệnh) do lây truyền qua đường tiếp xúc. Ở Việt Nam bệnh thường xảy ra từ tháng 3 đến tháng 9 hàng năm, dịch thường có chu kỳ 2-3 năm.
? Tác hại
Hàng năm 4 triệu trường hợp mắc thủy đậu ở Mỹ, 10.000 trường hợp phải vào bệnh viện. Bệnh gây tử vong ở mỹ 2 trên 100.000 trường hợp mắc ở trẻ nhỏ nhưng nếu ở người lớn có thể là 30. Các hình thái bệnh ở trẻ nhỏ không nguy hiểm bằng khi nó gây cho người lớn chưa được miễn nhiễm hoặc ở thể thứ phát (bệnh giời leo) có biến chứng. Phụ nữ mang thai bị mắc thủy đậu sẽ gây quái thai, thai nhi thiếu cân, dị tật và tử vong (1/14 nguy cơ và có thể tới 25% thai chết lưu, sảy thai hoặc sinh non). Nếu bà mẹ miễn nhiễm virus trễ hơn ở thai kỳ, trẻ sơ sinh có thể mắc thủy đậu sơ sinh (30% trong số này sẽ tử vong vì thủy đậu lan tỏa và biến chứng, 0,4% trường hợp tử vong năm đầu sau sinh và 0,02% các năm sau).
? Đặc điểm lâm sàng
Bệnh xảy ra sau 14-16 ngày tiếp xúc với người bệnh, thời kỳ ủ bệnh 10-21 ngày. Triệu chứng ban đầu sốt nhẹ, mệt mỏi, biếng ăn, nhức đầu như một số bệnh nhiễm virus cấp khác. Hai, ba ngày sau triệu chứng trên các nốt đậu mọc ra và bệnh nhân sốt cao (có khi tới 41oC) kéo dài 2-4 ngày sau nổi mụn. Mụn thủy đậu khác đậu mùa ở chỗ có một ngăn nên dễ xẹp khi thủng và thường không để lại sẹo (trừ khi do bội nhiễm do vi khuẩn khác gây ra). Trái với nốt đậum thủy đậu mọc ở chỗ kín trước (thường ở hố nách, niêm mạc miệng, vùng bẹn và da đầu). Mụn thủy đậu mọc không cùng lúc số lượng trung bình trên mỗi trẻ là 300 nốt (có khi nhiều tới 1.500 nốt khi nhiễm nặng ở trẻ có sức miễn dịch bẩm sinh kém). Người lớn nếu mắc mụn thủy đậy gây tổn thương sâu hơn, nguy cơ biến chứng lớn hơn 10-25 lần so với trẻ nhỏ.
? Các biến chứng
Bệnh nhẹ ở trẻ nhỏ nhưng nguy hiểm đến tính mạng khi bị biến chứng. Thường gặp nhất là bội nhiễm ngoài da do vi khuẩn khác (tụ cầu, liên cầu) gây viêm tế bào, viêm hạch áp xe dưới da, hoại tử và có thể để lại sẹo trên mặt. Ở người lớn nếu mắc dễ biến chứng nghiêm trọng như viêm phổi gây tử vong lớn nhất (7% số người mắc). Các biến chứng khác như viêm não, viêm khớp tủy xương, xuất huyết nội tạng thường xảy ra ở trẻ dưới 5 tuổi và người trưởng thành.
Điều phiền toái nhất do virus thủy đậu gây ra là bệnh Zona (giời leo) ở người lớn do nhiễm virus từ trước, bị tái phát khi trưởng thành. Nốt phỏng của bệnh Zona khu trú dọc theo vùng da đầu dây thần kinh cảm giác ở một phía vùng ngực trái hoặc phải (không khi nào cả hai phía). Nốt phỏng giời leo gây triệu chứng đau rát đến không chịu nổi cho người bệnh. Điều đáng lưu ý trong việc chữa bệnh này bằng thuốc tây y và Đông y cho tới nay đều không trị được căn nguyên bệnh mà chỉ để giảm đau, giảm sốt (Tây y) và mát da dịu đau (Đông y với đậu xanh nhai nát). Bệnh Zona với các biến chứng viêm phổi, viêm não, viêm thận và nội quan có thể dẫn đến tử vong.
? Vaccin phòng ngừa
62 năm sau khi phát hiện virus gây bệnh người ta mới phát triển thành công một loại vaccin sống giảm độc lực dùng chủng OKA của Nhật (tác giả công trình là Michel Takahshi). Các nghiên cứu thực địa tiêm chủng đã được tiến hành suốt 24 năm qua tại Nhật, Châu Âu và Mỹ. Bốn công ty hàng đầu trên thế giới là Biken, SmithKline Beecham, Merck and Co., Pasteur. Merieux đã sản xuất thành công vaccin này. Trong số đó vaccin của SmithKline Beecham đã có mặt tại Việt Nam từ tháng 8/1998 mang visa của Bộ Y tế VNDP 031-0798 với tên thương mại là Varilrix.
V đã được thử nghiệm trên 10.000 nguồn gốc khỏe mạnh cho thấy vaccin có hiệu quả chuyển đổi huyết thanh 95% sau một liều tiêm. Vaccin được dung nạp tốt, ít, phản ứng phụ (5% có ban sẩn với số lượng ít khoảng 10-50 nốt). Thời gian có hiệu lực ít nhất 10 năm tương đương miễn dịch do nhiễm trùng tự nhiên. Ở Mỹ vaccin cũng đã đã được phép lưu hành với hiệu quả bảo vệ 70-90% trong thời gian 3-6 năm, các trường hợp đã tiêm mà vẫn mắc thì cũng nhẹ (khoảng 50% bị 50 nốt ban sẩn). Liều miễn dịch cơ bản một mũi duy nhất cho trẻ 12 tháng đến 12 tuổi, tiêm dưới da 0,5ml. Người lớn và trẻ từ 13 tuổi trở lên phải tiêm 2 mũi cách 6-10 tuần có thể đạt hiệu quả bảo vệ 100%. Varilrix hiện nay ở dạng đông khô dễ lưu hành bảo quản tương lai nó sẽ được phối hợp với một số vaccin khác tạo hiệu quả đa năng một mũi tiêm phòng nhiều bệnh như Thủy đậu + Sởi + Phong chẩn (Rubella) và Quai bị.
PGS. PTS LÊ VĂN HIỆP
Viện Vaccin
YKHOA.NET